Skip navigation

2. Cơ sở thực tiễn

- Trong thời đại ngày nay, phát triển kinh tế - xã hội gắn với quốc phòng, an ninh đã trở thành quy luật phổ biến ở mọi quốc gia, dân tộc độc lập có chủ quyền.

Dù nước đã phát triển, đang phát triển hay chậm phát triển, với chế độ chính trị - xã hội khác nhau nhưng cũng đều chú ý quan tâm, chăm lo thực hiện phát triển kinh tế - xã hội gắn với quốc phòng - an ninh. Tuy nhiên, các nhà nước khác nhau, với chế độ chính trị xã hội khác nhau và trong những điều kiện, hoàn cảnh khác nhau thì sự gắn kết đó có mục đích, mục tiêu và nội dung phương thức thực hiện cũng khác nhau. 

Ngay ở mỗi nước, trong từng giai đoạn phát triển thì sự gắn kết phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh cũng khác nhau. Ở Việt Nam, phát triển kinh tế - xã hội gắn với quốc phòng, an ninh không những là một tất yếu khách quan, là vấn đề có tính quy luật mà còn là một truyền thống trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.

+ Dưới các triều đại phong kiến trước đây, đứng trước nguy cơ thường xuyên bị các thế lực bên ngoài đe dọa, xâm lược, để tồn tại phát triển đất nước, các triều đại luôn lấy lợi ích quốc gia dân tộc làm trọng, đề ra kế sách giữ nước với tư tưởng “Nước lấy dân làm gốc, khoan thư sức dân làm kế sách sâu rễ bền gốc”. 

Khi đất nước hòa bình luôn chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết các dân tộc, phát triển sản xuất đi đôi với chăm lo củng cố thế trận phòng thủ, xây dựng tiềm lực và thực lực quân sự theo quan điểm “ngụ binh ư nông”, “động vi binh, tĩnh vi dân”. Xây dựng kinh tế bằng việc khai hoang, lập ấp ở những nơi xung yếu để “phục binh sẵn, phá thế giặc...

+ Từ khi Đảng ta ra đời đã thực hiện sự kết hợp này một cách nhất quán bằng những chủ trương sáng tạo, phù hợp với từng thời kì của cách mạng.

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 – 1954,) Đảng đề ra chủ trương "Vừa kháng chiến vừa kiến quốc"; tiến hành phát triển kinh tế ở hậu phương với tiến hành chiến tranh nhân dân rộng khắp ở mọi nơi địch đến; xây dựng "làng kháng chiến", địch đến thì đánh, địch lui ta lại tăng gia sản xuất. Thực hiện khẩu hiệu: "Ruộng rẫy là chiến trường, cuốc cày là vũ khí, nhà nông là chiến sỹ, hậu phương thi đua với tiền phương".

Trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước (1954 - 1975), kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh đã được Đảng ta chỉ đạo thực hiện ở mỗi miền với nội dung và hình thức thích hợp.

Ở miền Bắc, để bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và xây dựng hậu phương lớn cho miền Nam đánh giặc, Đại hội lần thứ III của Đảng đã đề ra chủ trương: "Trong xây dựng kinh tế, phải thấu suốt nhiệm vụ phục vụ quốc phòng, cũng như trong củng cố quốc phòng phải khéo sắp xếp cho ăn khớp với công cuộc xây dựng kinh tế". Theo tinh thần đó, miền Bắc đã xây dựng, phát triển chế độ xã hội mới, nền kinh tế, văn hoá mới, nâng cao đời sống mọi mặt của nhân dân; đồng thời kết hợp chặt chẽ với chăm lo củng cố quốc phòng, an ninh vững mạnh, đánh thắng chiến tranh phá hoại của đế quốc Mĩ, bảo vệ vững chắc miền Bắc xã hội chủ nghĩa và chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến lớn miền Nam đánh thắng giặc Mĩ xâm lược.

Thời kỳ cả nước độc lập, thống nhất và đi lên chủ nghĩa xã hội (từ 1975 đến nay) kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh được Đảng ta khẳng định là một nội dung quan trọng trong đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa và được triển khai trên quy mô rộng lớn, toàn diện hơn.

Nhờ chính sách nhất quán về thực hiện kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh chúng ta đã phát huy được mọi tiềm năng cho xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong thời bình, cùng với phát triển kinh tế là chăm lo củng cố tiềm lực quốc phòng, thế trận quốc phòng. Nhờ vậy, khi đất nước bị xâm lược chúng ta đã động viên được "cả nước đồng lòng, toàn dân đánh giặc" ; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo thành sức mạnh tổng hợp để chiến thắng kẻ thù. Do vậy đã góp phần giữ gìn và phát triển đất nước cho đến ngày nay.