Skip navigation

TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHIM TƯ LIỆU

Giao trình bài 4

NỘI DUNG

I. Những vấn đề chung về bảo đảm trật tự an toàn giao thông

1. Một số khái niệm cơ bản

a. Giao thông

P/s về tình hình Giao thông chung của quốc gia

Giao thông là những hệ thống giúp cho việc di chuyển, đi lại của mọi người với các phương tiện và loại hình khác nhau một cách đơn lẻ hoặc cùng nhau.

- Giao thông ở nước ta hiện nay bao gồm các hệ thống: giao thông đường bộ, đường thủy, đường sắt, đường không. Mỗi hệ thống bao gồm có kết cấu hạ tầng giao thông (đường sá, bảng biển chỉ dẫn, nhà ga, bến đỗ, trạm dừng...) lực lượng đảm bảo giao thông, người và phương tiện tham gia giao thông, văn bản quy phạm pháp luật về giao thông.

- Hệ thống giao thông được phân loại theo hình thức tham gia giao thông gắn với các phương tiện giao thông: giao thông đường bộ, giao thông đường sắt, đường thủy, đường không.

- Giao thông thường được tổ chức và kiểm soát bởi nhà nước nhằm phát triển các hệ thống và đảm bảo an toàn.

b. An toàn giao thông

An toàn giao thông là sự ổn định, thông suốt, trật tự của các hệ thống giao thông, người và phương tiện, hàng hóa tham gia giao không bị ảnh hưởng, thiệt hại, mất.

- Trạng thái chỉ sự ổn định, thông suốt, trật tự của các hệ thống giao thông. Người và các phương tiện tham gia giao thông không bị ảnh hưởng về tiến độ, lộ trình và thiệt hại về tinh thần, sức khỏe, tính mạng, hư hỏng mất mát về phương tiện, hành lý, hàng hóa.

- An toàn người tham gia giao thông, phương tiện giao thông, kết cấu hạ tầng giao thông, môi trường, lực lượng đảm bảo giao thông, văn bản quy phạm pháp luật về giao thông.

- Mất an toàn giao thông do nguyên nhân từ cả khách quan và chủ quan. Nguyên nhân khách quan do thời tiết, môi trường, động vật tác động tiêu cực đến các hoạt động của con người và phương tiện trong bảo đảm và tham gia giao thông. Nguyên nhân chủ quan do con người không chấp hành và tuân thủ đầy đủ các quy tắc, quy phạm pháp luật, hướng dẫn khi tham gia giao thông.

c. Bảo đảm trật tự an toàn giao thông

Bảo đảm trật tự, an toàn giao thông là việc thiết lập, duy trì, củng cố, thúc đẩy trạng thái tham gia giao thông có nền nếp, kỷ cương, trật tự, an toàn đối với người và phương tiện, hàng hóa tham gia giao thông, xây dựng ý thức tự giác chấp hành pháp luật, phòng ngừa, hạn chế tới mức thấp nhất các vụ tai nạn giao thông xảy ra.

Câu hỏi [1]: Pháp luật về bảo đảm TTATGT là của ai?

Dự kiến kết luận:

- Lực lượng đảm bảo trật tự an toàn giao thông là những lực lượng chuyên trách hướng dẫn, điều khiển, kiểm tra, giám sát, chỉ đạo, tuyên truyền, trong đó cảnh sát giao thông là lực lượng nòng cốt.

- Trật tự an toàn giao thông được đảm bảo khi các hệ thống giao thông ổn định, an toàn; người và các phương tiện, hàng hóa tham gia giao thông không bị ảnh hưởng, hư hại, không gây ra các sự cố mất an toàn và tuân thủ đầy đủ các nguyên tắc, quy định, quy phạm pháp luật về giao thông.

- Đảm bảo trật tự an toàn giao thông là trách nhiệm của mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm đảm bảo cho các loại hình giao thông diễn ra an toàn, thông suốt, trật tự để góp phần phát triển kinh tế -xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh và bảo vệ môi trường.

2. Thực trạng bảo đảm trật tự an toàn giao thông ở Việt Nam gần đây

Câu hỏi [2]: Anh (chị) có suy nghĩ gì về ý thức của người tham gia giao thông trong đoạn Video trên?

Định hướng nghiên cứu:

Theo thống kê của Ủy ban an toàn giao thông Quốc gia, trong 5 năm (2016-2020), tình hình tai nạn giao thông trên toàn quốc được kiềm chế hiệu quả. Cả nước xảy ra 94.024 vụ, làm chết 39.917 người, bị thương 77.477 người. So với cùng kỳ 5 năm trước, giảm trên 42% số vụ, trên 19% số người chết và giảm trên 53% số người bị thương.

a. Thực trạng bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường bộ

Những năm qua, nhất là từ 2011 đến nay, công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông luôn được Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm. Đã có nhiều chủ trương, giải pháp đồng bộ, quyết liệt trong lãnh đạo, chỉ đạo của cả Hệ thống chính trị nhằm huy động sức mạnh tổng hợp của toàn dân, phát huy vai trò của lực lượng Công an nhân dân mà nòng cốt là lực lượng Cảnh sát giao thông nói riêng trong đảm bảo trật tự an toàn giao thông. Kết quả về trật tự an toàn giao thông có chuyển biến tích cực, văn hóa giao thông từng bước định hình, tạo được đồng thuận, lan tỏa cao trong nhân dân. Thái độ ứng xử, giải quyết khi có ùn tắc, va chạm giao thông nhân văn, lịch sự hơn, xuất hiện nhiều điển hình tiên tiến trong chấp hành, hướng dẫn, giúp đỡ người, phương tiện không may bị tại nạn và là đã kiềm chế, kéo giảm được tại nạn giao thông. Từng bước khắc phục, giải tỏa tình trạng ùn tắc giao thông, nhất là ở trung tâm các đô thị lớn, tuyến giao thông chính vào ngày, giờ cao điểm.

Tuy nhiên, tình hình trật tự an toàn giao thông đường bộ ở nước ta hiện nay còn phức tạp, rất đáng lo ngại và tai nạn giao thông luôn hiện hữu, đe dọa sức khỏe, tính mạng, tài sản của nhà nước và người dân hàng ngày, hàng giờ. Đây là nỗi ám ảnh của cả xã hội và mỗi người dân. Nguyên nhân của tình trạng này, trước tiên là do ý thức tôn trọng, chấp hành pháp luật về giao thông, văn hóa giao thông của một bộ phận người dân, nhất là những người điều kiển xe cơ giới còn thấp, có nhiều vi phạm; sự tùy tiện, coi thường pháp luật, không tôn trọng các hướng dẫn, điều khiển của hệ thống đảm bảo an toàn giao thông. 

Mặt khác, với sự gia tăng nhanh chóng của các phương tiện giao thông, nhất là phương tiện giao thông cá nhân dẫn đến hệ thống công trình giao thông đường bộ đã xuất hiện nhiều bất cập, công tác quản lý điều hành gặp nhiều lúng túng, kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ chưa đáp ứng được nhu cầu đi lại và vận tải hàng hóa, tính kết nối của kết cấu hạ tầng giao thông chưa cao. Vận tải đường bộ trở thành phương thức vận tải chủ đạo, với khối lượng hàng hóa và hành khách chiếm tỷ trọng lần lượt là 93% và 78% tổng khối lượng vận tải. Tuy nhiên, phương thức này cũng đã bộc lộ những hạn chế nhất định như: Mật độ đường thấp, tắc nghẽn giao thông trên các tuyến vành đai, cửa ngõ; thiếu ngân sách bảo trì thường xuyên; phương tiện cá nhân phát triển nhanh, khó kiểm soát; hệ thống logistics kém hiệu quả (chiếm 20% GDP) do các dịch vụ còn manh mún, đơn giản; xe quá tải khó kiểm soát triệt để; tai nạn thường xuyên xảy ra; Luật Giao thông đường bộ năm 2008 sau hơn 12 năm đưa vào thực thi đã bộc lộ những hạn chế, cần sửa đổi để phù hợp với thực tiễn; các vấn đề về đầu tư, xây dựng các công trình giao thông đường bộ theo hình thức BOT, BT còn nhiều bất cập v.v.

Trong  lĩnh vực bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ hiện nay có diễn biến phức tạp, nảy sinh nhiều vấn đề bất cập, bức xúc nhất trong các loại hình giao thông. Tai nạn giao thông đường bộ chiếm hơn 95% trong tổng số vụ, số người chết, số người bị thương của các lĩnh vực giao thông, để lại hậu quả rất lớn cho xã hội; vi phạm về trật tự, an toàn giao thông đường bộ rất phổ biến, chiếm tỷ lệ trên 80% tổng số hành vi vi phạm của các lĩnh vực giao thông. Bên cạnh đó, đường bộ là nơi diễn ra phức tạp nhất về các hoạt động tội phạm, các hành vi vi phạm pháp luật khác. Thực trạng này gây lãng phí nguồn nhân lực, thiệt hại kinh tế, ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả công việc, sức khoẻ, đời sống người dân, tác động không tốt đến thu hút đầu tư, du lịch, môi trường v.v.

b. Thực trạng bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường sắt

Tổng công ty đường sắt Việt Nam cho biết, được sự chỉ đạo của Chính phủ, Ủy ban an toàn giao thông Quốc gia, Bộ Giao thông vận tải và các bộ ngành liên quan, Đường sắt Việt Nam luôn chủ động phối hợp với chính quyền các địa phương, các cơ quan chức năng thực hiện nhiều giải pháp để kiềm chế tai nạn giao thông đường sắt, ngăn chặn tình trạng mở đường ngang trái phép qua đường sắt và vi phạm hành lang an toàn giao thông đường sắt. Tuy nhiên, kết quả vẫn chưa được như mong muốn, tình hình trật tự an toàn đường sắt vẫn còn diễn biến phức tạp, đặc biệt tại các điểm giao cắt đồng mức giữa đường sắt và đường bộ.

Tình hình các vụ tai nạn giao thông đường sắt cho thấy, có 96,51% số vụ tai nạn giao thông đường sắt là do các nguyên nhân khách quan, tức là do người, các phương tiện tham gia giao thông đường bộ và người dân sinh sống cạnh đường sắt gây ra cho đường sắt. Có tới 70,97% số vụ tai nạn giao thông đường sắt xảy ra tại các giao cắt đồng mức giữa đường sắt, đường bộ, nhất là tại các lối đi dân sinh bất hợp pháp. Như ở Hà Nội, chỉ tính tương đương 15km đường sắt trên tuyến Bắc – Nam từ ga Hà Nội đến xã Nhị Khê- huyện Thanh Trì hiện đang có tới 54 đường ngang hợp pháp và đặc biệt có đến 273 lối đi dân sinh bất hợp pháp. Đây chính là những nơi thường xảy ra các vụ tại nạn trong thời gian vừa qua.

Các vụ tại nạn đường sắt xảy ra từ nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng chủ yếu đến từ các nguyên nhân khách quan do người, phương tiện tham gia giao thông đường bộ gây ra cho đường sắt. Ngoài ra, còn có ác nguyên nhân khác như: do tồn tại về mặt lịch sử, từ khi được xây dựng đến nay giao cắt giữa đường bộ và đường sắt là giao cắt đồng mức; vấn đề quy hoạch, phát triển kinh tế xã hội của các địa phương, đặc biệt là việc xác định hành lang bảo vệ an toàn giao thông đường sắt chưa được đặt ra một cách đầy đủ, toàn diện; do việc buông lỏng quản lý của một số địa phương, chủ đầu tư các dự án giao thông đường bộ và các lực lượng chức năng diễn ra trong một thời gian dài dẫn đến tình trạng vi phạm, lấn chiếm hành lang an toàn giao thông đường sắt, mở các lối đi dân sinh trái phép qua đường sắt ngày một tăng. Theo thống kê của Tổng công ty đường sắt Việt Nam, tính đến nay cả nước có 1.471 đường ngang hợp pháp và 4.868 đường ngang bất hợp pháp. Như vậy, bình quân cứ 400m đường sắt có một đường ngang, đặc biệt trên tuyến đường sắt Bắc Nam có địa phương như Hà Nội, Hà Nam, Nam Định chỉ chưa đến 100 m đường sắt đã có 1 đường ngang. Hiện tại có đến 86% các đường ngang hợp pháp nhưng không đủ điều kiện an toàn theo quy định của Điều lệ Đường ngang.

c. Thực trạng bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường thủy

Giao thông đường thủy là một trong những bộ phận hợp thành hệ thống giao thông Việt Nam và giữ vị trí quan trọng trong lĩnh vực xuất, nhập khẩu hàng hóa. Riêng tuyến đường thủy phía bắc là tuyến giao thông huyết mạch, lưu lượng phương tiện qua lại nhiều, trong đó không ít tàu, thuyền vi phạm quy định về trật tự an toàn giao thông đường thủy như phương tiện không đăng ký, đăng kiểm; người điều khiển phương tiện không bằng cấp, chứng chỉ chuyên môn; không bảo đảm điều kiện an toàn đối với phương tiện và bến chở khách ngang sông, phương tiện chở quá trọng tải. Hành vi vi phạm về trật tự an toàn giao thông đường thủy là nguyên nhân dẫn tới các vụ tai nạn giao thông đường thủy (số vụ phát hiện và xử lý năm sau cao hơn năm trước). Trung bình mỗi năm, cả nước xảy ra khoảng 300 vụ tai nạn giao thông đường thủy, làm chết hơn 250 người, hơn 100 người bị thương, thiệt hại hàng trăm tỷ đồng. Lực lượng cảnh sát giao thông đường thủy kiểm tra và lập biên bản xử lý nhiều trường hợp vi phạm.

Công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường thủy nội địa thời gian qua chưa vững chắc, do các cấp ủy, chính quyền địa phương chưa quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo đúng mức; việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường thủy trong lĩnh vực này chưa đáp ứng được yêu cầu; quản lý phương tiện giao thông thủy còn bất cập, thiếu sót. Mặt khác, ý thức chấp hành pháp luật của người tham gia giao thông còn kém, kỹ năng xử lý tình huống của người điều khiển phương tiện chưa cao, tình trạng vi phạm quy tắc tránh, vượt, không nhường đường, chở quá tải, đi không đúng luồng tuyến, đặc biệt là tình trạng chở quá số người quy định dẫn đến các vụ đắm tàu thuyền cao trong thời gian qua.

d. Thực trạng bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường không

Hoạt động giao thông vận tải bằng đường hàng không đem lại lợi ích lớn cho nền kinh tế quốc dân nhờ đáp ứng được nhu cầu vận chuyển, đi lại nhanh chóng của con người. Hệ thống hàng không dân dụng đã được phát triển đồng bộ, ngày càng hiện đại, phương tiện bay ngày càng tăng cả về số lượng và chất lượng, dịch vụ hàng không ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người dân. Tuy nhiên, trong những năm qua vẫn còn xảy ra nhiều trường hợp uy hiếp an ninh, an toàn hàng không. Các vụ việc này chủ yếu xuất phát từ ý thức chấp hành pháp luật về an ninh, an toàn hàng không của người tham gia giao thông hàng không chưa cao. Mặt khác, còn do lỗ hổng về pháp lý, việc thiếu sự tuân thủ quy trình xử lý, năng lực chuyên môn và tính chủ động của đội ngũ nhân viên hàng không chưa tốt.

Ngoài ra, trật tự an toàn giao thông đường không ở nước ta hiện nay đang nảy sinh những vấn đề phức tạp mới về việc sử dụng, quản lý các phương tiện bay không người lái, phương tiên bay siêu nhẹ. Tình trạng trộm cắp tài sản, hành lý của hành khách vẫn còn xảy ra ở nhiều cảng hàng không.

II. Nguyên nhân, giải pháp phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn giao thông

1. Nguyên nhân vi phạm pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn giao thông

a. Người tham gia giao thông

Tình hình trật tự an toàn giao thông ở nước ta còn phức tạp, rất đáng lo ngại và tai nạn giao thông luôn hiện hữu, đe dọa sức khỏe, tính mạng, tài sản…Nhà nước, nhân dân. Đây là nỗi ám ảnh của xã hội và người dân mà trước tiên là do ý thức tôn trọng, chấp hành pháp luật về giao thông, văn hóa giao thông của một bộ phận người dân, nhất là những người điều kiển xe cơ giới còn thấp, có nhiều vi phạm. Hằng năm lực lượng Công an đã phát hiện, xử lý hàng nghìn trường hợp vi phạm trật tự an toàn giao thông, nguyên nhân dẫn đến hành vi vi phạm đến từ nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan, trong đó nguyên nhân chủ quan là chính. Đó là ý thức tự giác chấp hành pháp luật về trật tự an toàn giao thông của một bộ phận người tham gia giao thông còn nhiều hạn chế. Các hành vi vi phạm diễn ra phổ biến, dễ gây ra tai nạn như: vượt đèn đỏ, lùi xe và đi ngược chiều trên đường cao tốc; sử dụng điện thoại, nhắn tin không quan sát đường khi lái xe; đỗ dừng xe tùy tiện, không đúng nơi qui định; lái xe đang trong cơn “ngáo đá”, “khát ma túy”, say rượu, bia hoặc chất kích thích khác; điều khiển phương tiện không có giấy phép lái xe, sử dụng giấy phép lái xe giả hoặc đã bị thu hồi do vi phạm hoặc gây tai nạn; chở quá tải, quá khổ, quá số người quy định; phóng nhanh, vượt ẩu, lạng lách, đánh võng, đua xe trái phép; chống người thi hành công vụ, bỏ chạy không chấp hành hiệu lệnh dừng xe của lực lượng chức năng khi có vi phạm hoặc gây tai nạn. 

b. Người mua bán hàng hóa trong hành lang an toàn giao thông

Dọc theo các con đường tuyến tỉnh, thành phố, tuyến đường huyện, xã hay thậm chí tại những điểm chợ có nơi dành cho khu vực bán hàng, người dân lấn sang hành lang an toàn giao thông để buôn bán, người mua dừng đỗ phương tiện không đúng quy định dẫn đến chiếm lòng đường giao thông, gây cản trở lưu thông, thậm chí đây là hiểm họa khôn lường xảy ra tai nạn giao thông đường bộ. Thực tế tại một số tuyến đường và tại các điểm chợ trên nhiều địa bàn tỉnh, thành phố, huyện, xã, phường tình trạng họp chợ tự phát trong hành lang an toàn giao thông, tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn giao thông cao. Nhiều nơi, người dân tự nhiên lấn chiếm lòng, lề đường, vỉa hè của cả đường bộ và đường sắt để làm nơi buôn bán, họp chợ, vui chơi, v.v.

Thời gian qua, các cơ quan chức năng đã thực hiện các biện pháp nhằm bảo vệ và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm hành lang an toàn trên các tuyến cả đường bộ, đường sông, đường sắt. Mặc dù đã được tuyên truyền, nhắc nhở nhưng nhiều hộ dân vẫn cố tình vi phạm làm mất trật tự hành lang an toàn giao thông. Nguyên nhân chủ yếu của hành vi lấn chiếm hành lang an toàn giao thông là do tâm lý muốn cận lộ để làm ăn, buôn bán của người dân, dẫn đến lực lượng chức năng hôm nay dẹp được chỗ này thì ngày mai họ lại chạy sang chỗ khác hoặc lúc có lực lượng chức năng đi kiểm tra, xử lý thì họ chấp hành nhưng sau khi lực lượng chức năng đi rồi thì đâu lại vào đó. Đây cũng là tình trạng làm gia tăng các vụ tại nạn giao thông, gây thiệt hại to lớn cả về con người và vật chất, phương tiện.

c. Quản lý nhà nước về đảm bảo trật tự an toàn giao thông

Công tác quản lý nhà nước về trật tự an toàn giao thông còn nhiều yếu kém, thể hiện: công tác quy hoạch giao thông thiếu căn cứ khoa học về tầm nhìn mang tính chiến lược; kết cấu hạ tầng giao thông nhất là giao thông đô thị còn bất cập; công tác tổ chức giao thông lúng túng; các chính sách phát triển giao thông vận tải, phát triển phương tiện giao thông cơ giới chưa theo kịp nhu cầu vận động của nền kinh tế thị trường; công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật về trật tự an toàn giao thông chưa thường xuyên; vẫn còn tình trạng buông lỏng công tác đảm bảo trật tự an toàn giao thông ở một số địa phương; tiêu cực của một số bộ phận cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về trật tự an toàn giao thông chưa được ngăn chặn và xử lý triệt để.

Công tác quản lý Nhà nước trong chỉ đạo và điều hành thực hiện các giải pháp bảo đảm trật tự an toàn giao thông chưa thường xuyên, liên tục và mạnh mẽ. Cụ thể là: năng lực, chất lượng, hiệu quả của công tác quản lý Nhà nước về kinh doanh vận tải, quản lý kỹ thuật phương tiện, bảo vệ kết cấu hạ tầng cũng như công tác thanh tra, tuần tra kiểm soát, xử lý vi phạm còn nhiều hạn chế, mới chỉ tập trung tại một số địa bàn, một số nhóm đối tượng, trên các tuyến trọng điểm, trong thời gian cao điểm, chưa bảo đảm thường xuyên, liên tục trên địa bàn; công tác quản lý về hoạt động vận tải, đào tạo, sát hạch cấp giấy phép lái xe, đăng kiểm phương tiện vẫn còn một số hạn chế; tình trạng phương tiện chở quá tải trọng vẫn xảy ra, hiện tượng tiêu cực trong thực thi công vụ vẫn còn, một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức thực thi nhiệm vụ thanh tra, tuần tra, kiểm soát còn có biểu hiện né tránh, thiếu trách nhiệm, tiêu cực, làm trái quy định.

2. Giải pháp phòng, chống vi phạm pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn giao thông

a. Xây  dựng  quy  hoạch,  kế  hoạch  về  về đảm bảo trật tự an toàn giao thông

Đẩy mạnh thực hiện Kết luận số 45-KL/TW ngày 01/02/2019 của Ban Bí thư về việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 18-CT/TW của Ban Bí thư khóa XI về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa và khắc phục ùn tắc giao thông. Nghị quyết số 30/NQ-CP về Chương trình hành động của Chính phủ; Kế hoạch triển khai “Chiến lược quốc gia bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường bộ đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030” ở tất cả các cấp, các ngành. Hoàn thiện bộ tiêu chí đánh giá về nhiệm vụ bảo đảm trật tự an toàn giao thông.

Tiếp tục quan tâm đầu tư, phát triển kết cấu hạ tầng giao thông; định hướng quy hoạch, phát triển các tuyến giao thông mới phù hợp, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và đi lại của nhân dân. Có chiến lược lâu dài, cụ thể về phát triển giao thông trước mắt và tương lai, kết hợp với quy hoạch đô thị vùng. Phát triển nhanh chóng, nâng cao tỷ trọng giao thông vận tải hành khách công cộng, giảm dần và hạn chế vận chuyển giao thông cá nhân bằng các chính sách giao thông kết hợp với chiến lược quy hoạch đô thị (di chuyển một số trường đại học, bệnh viện lớn ra ngoại ô, các tỉnh lân cận đô thị lớn…). Sử dụng các loại phương tiện mới, hiện đại, áp dụng kỹ thuật điều khiển tiên tiến. Cải tạo, mở rộng từng bước hệ thống đường ph   cũ, tiến tới cải tạo triệt để, kết hợp xây mới góp phần nâng cao chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật mạng lưới. Phấn đấu hằng năm giảm 5%-10% số người chết và bị thương do tai nạn giao thông đường bộ, lâu dài hướng tới mục tiêu không có người chết vì tai nạn giao thông; tiến tới xây dựng một xã hội có hệ thống giao thông thông minh, an toàn, thông suốt, thuận tiện, hiệu quả và thân thiện môi trường.

b. Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về đảm bảo trật tự an toàn giao thông

Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về trật tự an toàn giao thông, khắc phục kịp thời những bất cập, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện, đẩy mạnh việc sửa đổi, bổ sung và ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật để nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, bảo đảm yêu cầu cải cách thủ tục hành chính, phù hợp với nhiệm vụ bảo đảm trật tự an toàn giao thông trong tình hình mới. Tập trung rà soát, sửa đổi các văn bản quy phạm pháp luật, các quy định, điều kiện kinh doanh vận tải.

Đẩy mạnh thực hiện cải cách thủ tục hành chính để nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo đảm trật tự an toàn giao thông; tập trung vào quản lý kinh doanh và điều kiện kinh doanh tất cả các lĩnh vực vận tải; đẩy mạnh thực hiện tái cơ cấu thị phần và tăng cường kết nối các phương thức vận tải; tăng cường khai thác có hiệu quả các phương thức vận tải hàng hóa có sức chuyên chở lớn như đường thủy nội địa, đường sắt, vận tải biển để giảm áp lực cho vận tải đường bộ, chấm dứt tình trạng xe ôtô chở quá tải trọng.

Tập trung rà soát, bổ sung các quy định để đảm bảo an toàn giao thông đối với hoạt động kinh doanh vận tải bằng xe ô tô, siết chặt các điều kiện về an toàn giao thông đối với đơn vị kinh doanh vận tải hành khách và vận chuyển hàng hóa; tiếp tục nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các thông tư quy định về tổ chức, quản lý hoạt động vận tải bằng xe ô tô và dịch vụ hỗ trợ vận tải đường bộ cho phù hợp với tình hình mới, bảo đảm chặt chẽ, không tạo kẽ hở cho các phương tiện hoạt động kinh doanh vận tải trái phép, gây mất trật tự, an toàn giao thông, đặc biệt là đối với phương tiện vận tải đường bộ. Bổ sung quy định bắt buộc trang bị dây an toàn đối với tất cả ghế ngồi trên các xe ô tô chở người, có lộ trình áp dụng đối với phương tiện đang lưu hành. Nghiên cứu, bổ sung quy định tem kiểm định có màu sắc, hình dạng riêng đối với xe ô tô kinh doanh vận tải. Sửa đổi quy định về tốc độ và khoảng cách an toàn của xe cơ giới, xe máy chuyên dùng tham gia giao thông trên đường bộ, đặc biệt là hạn chế tốc độ trên các cung đường đèo, dốc và đường qua khu dân cư.

c. Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, hướng dẫn pháp luật về đảm bảo trật tự an toàn giao thông

Câu hỏi [5]: Vì sao nói Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo đảm trật tự, ATGT là một hoạt động mang tính xã hội và mang tính chiến lược cơ bản, lâu dài có ý nghĩa quan trọng?

Dự kiến kết luận:

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về bảo đảm trật tự an toàn giao thông: Chỉ thị số 18-CT/TW ngày 04/9/2012, của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sư lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa và khắc phục ùn tắc giao thông, trong đó nêu rõ sự quyết tâm phấn đấu hàng năm kiềm chế, làm giảm từ 5% đến 10% tai nạn giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa và giảm ùn tắc giao thông đường bộ. Nghị quyết số 30/NQ-CP ngày 01/03/2013, của Chính phủ về việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa và khắc phục ùn tắc giao thông. Chỉ thị số 12/CT-TTg ngày 23/6/2013, của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường thực hiện các giải pháp cấp bách nhằm ngăn chặn tai nạn giao thông nghiêm trọng trong hoạt động vận tải. Luật Giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy, đường hàng không dân dụng. Nghị định 100/2019/NĐ-CP quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt. Công văn số 347/TTg-CN ngày 18/3/2020 của Thủ tướng Chính phủ về việc ngăn ngừa, hạn chế các vụ tai nạn đường thủy do các phương tiện nhỏ, thô sơ gây ra.

Sử dụng một cách hiệu quả, phát huy tối đa sức mạnh của mạng lưới truyền thông nhằm chuyển tải một cách trực quan sinh động, dễ hiểu các thông tin, thông điệp kiến thức về an toàn giao thông đến cộng đồng.

Huy động các cơ quan thông tin truyền thông, các tổ chức chính trị xã hội, các cơ quan, đơn vị tích cực tuyên truyền pháp luật bảo đảm trật tự an toàn giao thông; tuyên truyền sâu rộng đến cơ sở, từ xã phường đến thôn, bản, các khu công nghiệp.

Đẩy mạnh và đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền an toàn giao thông trên các phương tiện thông tin đại chúng (internet, truyền hình, truyền thanh, báo chí): tuyên truyền trực quan, tuyên truyền lưu động, sử dụng thông điệp, băng zôn, áp phích, khẩu hiệu, triển lãm tranh ảnh, các hội thi, vận động sáng tác âm nhạc, phim ảnh, văn học nghệ thuật về chủ đề an toàn giao thông; phát triển các ứng dụng tiện ích có gắn kèm với tính năng tuyên truyền về an toàn giao thông cho các thiết bị điện thoại thông minh/máy tính bảng.

Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến quy định của pháp luật về quản lý hoạt động vận tải khách và hàng hóa ở các lĩnh vực đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa trong các doanh nghiệp vận tải, đối với người điều khiển phương tiện.

Tổ chức các chiến dịch tuyên truyền theo chuyên đề: không uống rượu bia khi lái xe; tuân thủ quy định tốc độ; đội mũ bảo hiểm; quy tắc an toàn khi vượt qua đường sắt; hành lang an toàn giao thông đường bộ, đường sắt; điều kiện bảo đảm an toàn phương tiện thủy chở khách với các khẩu hiệu dễ nhớ, dễ làm theo.

Tổ chức cuộc vận động xây dựng Quỹ xã hội từ thiện “Chung sức vượt nỗi đau tai nạn giao thông”, kêu gọi sự ủng hộ của các tổ chức, cá nhân trong xã hội nhằm trang trải học phí, mua sắm sách vở, đồ dùng học tập và tạo việc làm cho con, em những nạn nhân không may qua đời vì tai nạn giao thông.   

d. Tổ chức thực hiện pháp luật về đảm bảo trật tự an toàn giao thông

Tăng cường công tác cưỡng chế vi phạm trật tự an toàn giao thông, tiếp tục duy trì và tăng cường các biện pháp kiểm soát tải trọng xe; xử lý vi phạm của người điều khiển môtô, xe gắn máy, tập trung vào các lỗi là nguyên nhân tăng tai nạn như: vi phạm quy định về tốc độ, nồng độ cồn; đi sai phần đường, làn đường, vi phạm về đội mũ bảo hiểm; xử lý các vi phạm về an toàn giao thông trong kinh doanh vận tải, tập trung xử lý chủ doanh nghiệp, chủ phương tiện kinh doanh vận tải bằng xe ôtô, đường thủy nội địa... Tiếp tục phối hợp các lực lượng thực hiện biện pháp phòng, chống đua xe môtô trái phép; kiên quyết điều tra, xử lý nghiêm minh trước pháp luật hành vi đua xe trái phép, tụ tập gây mất trật tự an toàn giao thông, chống người thi hành công vụ.

e. Đăng ký, quản lý phương tiện giao thông

Những năm gần đây, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, kéo theo đó là sự gia tăng nhanh chóng về số lượng, chủng loại các phương tiện giao thông. Nhu cầu đăng ký, sử dụng phương tiện giao thông cơ giới đường bộ ngày càng lớn, đòi hỏi hoạt động của các cơ quan chức năng, mà cụ thể là lực lượng Cảnh sát giao thông, phải được tiến hành chặt chẽ, đồng thời phải có sự cải cách, đổi mới cho phù hợp với nhu cầu thực tiễn. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác đăng ký, quản lý phương tiện trên máy vi tính do Cục cảnh sát giao thông quản lý và thực hiện qua đường truyền dữ liệu trên phạm vi toàn quốc, tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ trong đăng ký, quản lý, giám sát hoạt động kinh doanh vận tải, đặc biệt là vận tải bằng xe ôtô; Tiếp tục hoàn thiện Trung tâm thông tin quản lý vận tải đường bộ kết hợp với lắp đặt các camera giám sát hoạt động giao thông trên các tuyến quốc lộ trọng điểm, trước tiên là Quốc lộ 1, kết nối về Trung tâm và các Cục Quản lý đường bộ, chia sẻ dữ liệu vi phạm luật lệ giao thông cho lực lượng cảnh sát giao thông để xử lý vi phạm.

f. Nâng cao chất lượng đào tạo người điều khiển phương tiện giao thông

Siết chặt hoạt động các trung tâm đào tạo, sát hạch lái xe và nâng cao chất lượng đào tạo, sát hạch lái xe; siết chặt hoạt động các trung tâm đăng kiểm phương tiện cơ giới đường bộ, bảo đảm các tiêu chuẩn về an toàn kỹ thuật phương tiện. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát nhằm nâng cao việc thực hiện quy định pháp luật về đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe đối với các cơ sở đào tạo, sát hạch lái xe.

Tăng cường kiểm tra, giám sát công tác đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe, nhất là sát hạch lái xe môtô và lái xe kinh doanh vận tải; nhanh chóng hoàn thiện nội dung sát hạch cấp phép lái xe đảm bảo tiếp cận với tiêu chuẩn thế giới, bao gồm thực hành kỹ năng lái trên đường thực tế và kỹ năng dự đoán các tình huống nguy hiểm; đổi mới phương thức đào tạo và cấp bằng, chứng chỉ chuyên môn điều khiển phương tiện đường thủy nội địa, đặc biệt là các chứng chỉ cho người điều khiển phương tiện; kiểm soát chặt chẽ công tác đăng ký, đăng kiểm phương tiện giao thông, tăng cường bảo dưỡng phương tiện trong các đơn vị kinh doanh vận tải; kiên quyết đình chỉ các cơ sở, các doanh nghiệp vi phạm quy định, quy trình hoạt động, nếu sai phạm nghiêm trọng phải xử lý hình sự theo quy định của pháp luật, đồng thời đẩy mạnh các hoạt động thanh tra, kiểm tra việc chấp hành quy định quản lý nhà nước về trật tự an toàn giao thông, kiên quyết xử lý nghiêm cá nhân và tổ chức vi phạm.

g. Thanh tra, kiểm tra, tuần tra kiểm soát bảo đảm trật tự an toàn giao thông

Lực lượng Cảnh sát giao thông toàn quốc tổ chức đợt cao điểm tuần tra kiểm soát, xử lý vi phạm trật tự, an toàn giao thông; xây dựng các kế hoạch chuyên đề tăng cường lực lượng, phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ tổ chức tuần tra, kiểm soát, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm quy định pháp luật trật tự, an toàn giao thông; tập trung xử lý người điều khiển xe ô tô chở khách, xe ô tô tải, container vi phạm và các hành vi vi phạm là nguyên nhân trực tiếp gây tai nạn giao thông. Chia sẻ với ngành Giao thông vận tải thông tin về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động kinh doanh vận tải; phối hợp với các cơ quan chức năng kịp thời phát hiện, chấn chỉnh, xử lý nghiêm các vi phạm về trật tự, an toàn giao thông. Bố trí lực lượng tuần tra, kiểm soát khép kín 24/24 giờ để tuyên truyền, nhắc nhở và xử lý vi phạm trên các tuyến quốc lộ trọng điểm, các đường đèo dốc có mật độ phương tiện tham gia giao thông cao.

h  Trách nhiệm của học sinh, sinh viên về đảm bảo trật tự an toàn giao thông

Học sinh, sinh viên phải tích cực, chủ động nghiên cứu tìm hiểu pháp luật về an toàn giao thông. Trong quá trình tham gia giao thông, phải chấp hành tốt các quy định về an toàn giao thông, phải có trách nhiệm trong việc đảm bảo an toàn giao thông cho bản thân, gia đình và xã hội. Nêu cao ý thức chấp hành luật giao thông, tích cực tham gia xây dựng văn hóa giao thông, thiết thực góp phần làm giảm thiểu những thiệt hại do tai nạn giao thông gây ra. Thực hiện tốt quy ước “Bốn không, Ba có” mà Ủy Ban An toàn Giao thông quốc gia đã kêu gọi toàn dân thực hiện khi tham gia giao thông.

“Bốn không” gồm: Không uống rượu bia, phóng nhanh vượt ẩu, vượt đèn đỏ, vận hành phương tiện không đủ giấy tờ quy định; không lấn chiếm vỉa hè, lòng đường, hành lang bảo vệ an toàn giao thông; không có thói hư tật xấu trong ứng xử với mọi người cùng tham gia giao thông cũng như khi xảy ra tai nạn giao thông; không để xảy ra tai nạn khi tham gia giao thông.

“Ba có” gồm: có hiểu biết đầy đủ pháp luật về giao thông; có ý thức trách nhiệm cao nhất với bản thân và cộng đồng; có hành vi ứng xử văn hóa, hợp tác giúp đỡ người bị nạn khi xảy ra tai nạn giao thông.

Với thông điệp “An toàn giao thông là trách nhiệm của mọi người, mọi nhà”, tất cả chúng ta hãy nhận thức sâu sắc về vấn đề An toàn giao thông và bằng việc làm của mình trong việc chấp hành luật giao thông, xây dựng văn hóa giao thông. Mỗi lời nói gắn với việc làm của mỗi người, tuy rất nhỏ nhưng có ý nghĩa vô cùng lớn đối với bản thân, gia đình và xã hội. Chúng ta hãy luôn luôn cố gắng để hoàn thành tốt nghĩa vụ và trách nhiệm của mình trên “Mặt trận giao thông”, để đem lại hạnh phúc cho mình, cho mọi người, mọi nhà và cho toàn xã hội.

KẾT LUẬN

Công tác phòng chống vi phạm pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn giao thông là trách nhiệm của cả Hệ thống chính trị, mọi tổ chức đoàn thể xã hội, mọi người dân, trong đó trách nhiệm chính là của Bộ giao thông vận tải, của lực lượng cảnh sát giao thông. Để giảm thiểu tai nạn giao thông, đòi hỏi mọi lực lượng, tổ chức và người dân phải nêu cao ý thức, tự giác chấp hành nghiêm các quy định của pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn giao thông. Xây dựng và nâng cao văn hóa giao thông, kịp thời lên án các hành vi tiêu cực, vi phạm pháp luật trong lĩnh vực giao thông vận tải. Thực hiện đầy đủ, đồng bộ và hiệu quả các giải pháp bảo đảm an toàn giao thông trong tình hình hiện nay. Ngay từ bây giờ, mọi lúc, mọi nơi, mọi người hãy cùng thực hiện khẩu hiệu: “An toàn giao thông là trách nhiệm, hạnh phúc của mọi người, gia đình và xã hội”.

                                                                  Khánh Hòa, Ngày    tháng    năm 2022

                                                                            NGƯỜI BIÊN SOẠN

                                                                            GIẢNG VIÊN

                                                                                 Thiếu tá, ThS Nguyễn Hữu Hồi

 

 

Nhóm tác giả: Khoa Khoa học xã hội và nhân văn, Trường Sĩ quan thông tin

Tra cứu kiến thức môn học close